Tổng hợp 9 thể thơ trong văn học Việt Nam thường gặp
Văn học Việt Nam là một kho tàng phong phú về các thể thơ để bạn đọc khám phá. Mỗi thể thơ sẽ áp dụng luật, cách gieo vần…vô cùng thú vị. Cùng tìm hiểu về các thể thơ trong văn học trong bài viết dưới đây để hiểu hơn về quy luật, đặc điểm cụ thể
Contents
1. Thể thơ lục bát
Thể thơ lục bát xuất hiện lâu đời nhất ở Việt Nam. Đặc trưng của thể thơ này gồm các cặp thơ gồm câu thơ 6 chữ với câu thơ 8 chữ sắp xếp xen kẽ nhau. Thường thì câu lục sẽ mở đầu một bài thơ và dùng câu bát để kết bài. Mỗi bài thơ lục bát thường không giới hạn số lượng câu, xuất hiện chủ yếu ở các bài đồng dao, ca dao hay trong lời mẹ ru.
Quy luật
Luật bằng trắc thể hiện trong thể lục bát được thể hiệ như sau:
- Câu 1, 3 và 5: Tự do về thanh
- Câu 2, 4 và 6: Câu lục tuân theo luật B – T – B, câu bát tuân theo luật B – T – B – B
Cách gieo vần
Thể thơ lục bát của cách gieo vần khá linh hoạt. Nhà thơ có thể gieo vần bằng ở cuối câu lục và tiếng cuối cùng hiệp vần với tiếng thứ 6 trong câu bát nối tiếp đón. Và tiếng cuối trong câu bát này hiệp với tiếng cuối trong câu lục tiếp theo…Cứ như vậy cho đến khi hết bài thơ.
Ví dụ:
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
>>> Tham khảo thêm: Văn học dân gian là gì? Đặc trưng và các thể loại văn học dân gian
2. Thơ song thất lục bát
Thể thơ song thất lục bát cũng là thể thơ truyền thống của dân tộc Việt Nam sáng tạo. Cấu trúc của nó gồm 2 câu 7 chữ kết hợp với một cặp lục – bát. Thể thơ này cũng không giới hạn số lượng câu.
Quy luật
Quy luật bằng trắc trong thể thơ song thất lục bát có quy luật như sau:
- Câu 7 chữ ở trên: chữ thứ 3, 5 và 7 sẽ theo quy luật là T – B – T
- Câu 7 chữ ở dưới: ngược lại với quy luật ở trên, chữ thứ 3, 5 và 7 theo quy luật B – T – B
Cách gieo vần
Tiếng cuối trong câu bảy chữ trên hiệp với tiếng thứ 5 trong câu bảy chữ dưới. Trong khi đó tiếng cuối trong câu bảy chữ dưới lại hiệp với tiếng thứ 6 trong câu lục. Tiếng cuối trong câu lục thường hiệp với tiếng 6 trong câu bát. Cứ lặp lại như trên cho đến khi hết bài thơ.
Ví dụ:
“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?”
(Chinh Phụ ngâm – Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm)
Để nhận biết thể thơ song thất lục bát không quá khó, bạn chỉ cần nhìn vào số lượng chữ từng câu thơ của mỗi đoạn thơ. Cấu trúc mỗi đoạn thơ bao gồm 2 câu 7 chữ kết hợp với cặp lục – bát. Thể thơ đó thường không giới hạn số lượng câu trong một bài thơ.
Tác phẩm văn học tiêu biểu sử dụng trong thể thơ song thất lục bát là:
“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?”
(Chinh phụ ngâm – Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm)
“Có hoa nào qua mùa không héo?
Có tiếng nào giàu đẹp hơn không?
Mắt em là một dòng sông
Thuyền anh bơi lội giữa dòng mắt em.”
(Đôi mắt – Lưu Trọng Lư)
“Em nhớ mãi chiều thu lá đổ
Mình bên nhau cạn tỏ nguồn cơn
Chạnh lòng anh vọng lời thương
Xa xa vẳng tiếng nghe dường nỉ non.”
(Thuyền neo bến đậu – Hoàng Mai)
3. Thơ đường luật
Thể thơ đường luật có nguồn gốc từ Trung Quốc. Kế thừa tinh hoa của thể thơ này, khi du nhập vào Việt Nam, ông cha ta đã kết hợp với yếu tố thuần Việt.
Quy luật
Thơ đường luật vô cùng nghiêm ngặt và không hề bị phá vỡ, phụ thuộc vào số chữ trong một câu và số câu trong cả bài thơ:
– Thể thất ngôn tứ tuyệt (gồm 4 câu, mỗi câu có 7 chữ)
Ví dụ:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”
(Chiều tối – Hồ Chí Minh)
– Thể thất ngôn bát cú đường luật sẽ gồm có 8 câu, mỗi câu 7 chữ. Cấu trúc của thể thơ này gồm 2 câu đầu (mở đề và vào đề), câu 3 và 4 (câu thực), câu 5 và 6 (câu luận), câu 7 và 8 (câu kết)
Ví dụ:
“Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá, đá chen hoa
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại, trời non nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta.”
(Qua đèo ngang – Bà Huyện Thanh Quan)
– Thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt (gồm 4 câu, mỗi câu 5 chữ)
Ví dụ:
Đoạt sóc Chương Dương độ,
Cầm Hồ Hàm Tử quan.
Thái bình tu nỗ lực,
Vạn cổ thử giang san.
(Phò giá về kinh – Trần Quang Khải)
4. Thể thơ bốn chữ
Thể thơ này mỗi câu có 4 chữ, không giới hạn số lượng câu trong bài. Trong các loại thể thơ ở nước ta, thơ 4 chữ được xem là đơn giản nhất. Bởi chúng được áp dụng quy luật bằng trắc tương tự như các thể thơ khác: Chữ thứ 2 và chữ thứ 4 trong câu thơ có sự luân phiên giữa T – B hoặc B – T.
Quy luật
Luật bằng – trắc trong thể thơ này bao gồm: chữ thứ 2 và chữ thứ 4 có sự luân phiên T – B hoặc B – T.
Cách gieo vần
Thơ 4 chữ có cách gieo vần cực kỳ linh hoạt, hiệp vần bằng, vần chéo, vần chân và vần lưng …Tùy theo dụng ý và mục đích sẽ có cách gieo vần khác nhau để tạo điểm nhấn nhịp điệu trong câu thơ.
Ví dụ:
“Mùa xuân đi rồi
Nhiều hoa vắng mặt
Như chị hoa đào
Ra đi trước nhất
(Tế Hanh – Hoa cỏ)
Một số tác phẩm văn học tiêu biểu có sử dụng thể thơ bốn chữ là:
“Mùa xuân đi rồi
Nhiều hoa vắng mặt
Như chị hoa đào
Ra đi trước nhất
(Hoa cỏ – Tế Hanh)
“Em bước vào đây
Gió hôm nay lạnh
Chị đốt than lên
Để em ngồi cạnh.”
(Chị em – Lưu Trọng Lư)
“Chú bé loắt choắt,
Cái xắc xinh xinh,
Cái chân thoăn thoắt,
Cái đầu nghênh nghênh,
Ca-lô đội lệch,
Mồm huýt sáo vang,
Như con chim chích,
Nhảy trên đường vàng…”
(Lượm – Tố Hữu)
5. Thể thơ năm chữ
Cái tên đã cho biết thể thơ này gồm mỗi câu thơ có 5 chữ, số câu sẽ không bị giới hạn trong bài. Cách gieo vần và quy luật bằng trắc tương tự như thế thơ 4 chữ ở trên.
Ví dụ:
“Trên đường hành quân xa
Dừng chân bên xóm nhỏ
Tiếng gà ai nhảy ổ:
“Cục… cục tác cục ta”
Nghe xao động nắng trưa
Nghe bàn chân đỡ mỏi
Nghe gọi về tuổi thơ”
(Tiếng gà trưa – Xuân Quỳnh)
>>> Tham khảo thêm: Những cuốn sách hay nên đọc trong đời
6. Thể thơ sáu chữ
Thể thơ này gồm mỗi câu thơ có 6 chữ, cách gieo vần chéo hoặc vần ôm.
Ví dụ:
“Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay”
(Quê hương – Đỗ Trung Quân)
7. Thể thơ bảy chữ
Tương tự như trên, thể thơ 7 chữ gồm các câu có 7 chữ và trong bài không hạn chế về số lượng câu.
Ví dụ:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng
(Tràng giang – Huy Cận)
8. Thể thơ tám chữ
Thể thơ này gồm các câu có 8 chữ, bài thơ thường sẽ không giới hạn về số lượng câu.
Quy luật bằng trắc: Tiếng cuối với tiếng thứ 3 gồm vần trắng thì tiếng thứ 5 và tiếng thứ 6 là vần bằng và ngược lại.
Cách gieo vần: vần ôm, vần chéo và vần tiếp
Ví dụ:
Mặt trời lên! Sáng rõ rồi mẹ ạ!
Con đi bộ đội, mẹ ở lại nhà
Giặc Pháp, Mỹ còn giết người, cướp của trên đất ta
Đuổi hết nó đi, con sẽ về trông mẹ
(Nguyễn Khoa Điềm – Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ)
9. Thể thơ tự do
Các thể thơ trong văn học hiện đại nhất không thể thiếu thể thơ tự do, cho thấy sự phá cách, sáng tạo của người thi sĩ, không theo khuôn khổ nhất định.
Một số bài thơ tự do, số chữ trong câu và số câu trong một khổ, lượng khổ thơ toàn bài đều bị giới hạn. Bên cạnh đó quy luật bằng trắc, hiệp vần khá linh hoạt, tùy vào cảm xúc và chủ ý của người viết.
Ví dụ:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
(Sóng – Xuân Quỳnh)
Bài viết trên đây tổng hợp các thể thơ trong văn học Việt Nam hi vọng giúp các bạn ôn luyện thật tốt. Đừng quên theo dõi bài viết tiếp theo để cập nhật những kiến thức liên quan khác. Chúc bạn thành công!